G.
V. P. Hegel là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của triết học macxít. Ông là
nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu tiêu biểu của nền THCĐ Đức. Ph.Engel
coi ông "không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một nhà bác học có
tri thức bách khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại"
Hegel
xuất thân trong một gia đình quý tộc Phổ ở Xtutgat. Thời trẻ, ông chủ yếu quan
tâm nghiên cứu các vấn đề lịch sử, pháp quyền và tôn giáo.
Từ
1800-1807 chịu ảnh hưởng của Senlinh, ông bắt đầu say mê các vấn đề triết học.
Ông có các tác phẩm lớn như "hiện tượng học tinh thần" (l807). Tác
phẩm này đánh dấu sự kết thúc quá trình hình thành thế giới quan triết học của
Hegel thời kỳ đầu, đồng thời cũng cho thấy sự bất đồng nhất định giữa Hegel và
Senlinh trong việc lý giải các vấn đề triết học.
Hegel
viết tác phẩm lớn thứ hai của mình: "khoa học logic" (l812-1816).
Và
tác phẩm lớn thứ 3 của ông "bách khoa toàn thư của các khoa học triết học"
năm 1817. Và nhiều tác phẩm khác về lịch sử tôn giáo, lịch sử triết học, thẩm
mỹ học...
1. Hiện tượng học
tinh thần- cội nguồn và bí mật của triết học Hegel
Hiện tượng học tinh thần" (1807) đánh dấu sự chín muồi
trong thế giới quan triết học của ông: về cơ bản, ông đã thoát khỏi ảnh hưởng
của Senlinh và trên cơ sở kế thừa những tư tưởng hợp lý của Senlinh, ông bắt đầu
đề ra những nguyên lý cơ bản nhằm xây dựng hệ thống triết học độc lập của mình.
Mác gọi Hiện tượng học tinh thần là cội nguồn và bí mật của triết học
Hegel.
-
Tinh thần tuyệt đôi
Tinh
thần tuyệt đối (hay còn gọi là ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, ý thức
thượng đế..) là điểm xuất phát và nền tảng trong quan niệm về hiện thực.Tiếp
thu những quan niệm của Senlinh về cái Tuyệt đối, Hegel coi nền tảng thế giới
quan triết học của mình là tinh thần tuyệt đối được hiểu như đấng tối cao sáng
tạo ra giới tự nhiên và con người. Đối với ông, tư duy (tinh thần tuyệt đối, lý
tính tuyệt đối) là nguồn gốc duy nhất của mọi cái đang tồn tại. Thế giới tự
nhiên là tư duy đã tha hoá, là tư duy tồn tại dưới dạng vật chất. Ông nhấn mạnh
rằng, tư duy là tiền đề của mọi sự vật hiện tượng. Và trong mỗi sự vật có sự
đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, trong đó tư duy là bản chất còn tồn tại chỉ
là "ngoại tại hoá" của tư duy.
Tư
duy không phải là một bản nguyên bất động, mà là một quá trình nhận thức không
ngừng phát triển từ thấp đến cao. Vì vậy, nó không chỉ là khởi nguyên, mà còn
là chính cái nội dung phát triển của tất cả những cái hiện tồn. Theo Hegel, thế
giới vật chất chính là con người vô cơ, con người còn ở giai đoạn chưa hình
thành, còn con người chúng ta bằng xương bằng thịt là con người đã phát triển
đầy đủ, là con người trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có
của mình. Giai đoạn phát triển cao nhất của tư duy (tinh thần tuyệt đối) là tư
duy con người, là lịch sử nhân loại.
Như
vậy điểm xuất phát của triết học Hegel là ý niệm tuyệt đối, là sự đồng nhất
(thống nhất) giữa tư duy và tồn tại một cách duy tâm. Ông quy mọi quá trình của
hiện thực về quá trình tư duy, quy lịch sử hiện thực về lịch sử nhận thức. Ngay
cả hoạt động vật chất thực tiễn của con người cũng bị quy về quá trình tự ý
thức, tự nhận thức. Quan niệm này được trình bày khá rõ trong "Hiện
tượng học tinh thần" và được triển khai trong toàn bộ hệ thống triết
học của Hegel. Vì vậy, "Hiện tượng học tinh thần" được coi là cội
nguồn của triết học Hegel.
Tác
phẩm này cũng được coi là bí mật của triết học Hegel. Điều bí mật này được hàm
chứa trong một phương pháp triết học mới so với các hệ thống triết học trước
đó: phương pháp biện chứng lần đầu tiên được trình bày trong "Hiện tượng
học tinh thần". Nguyên lý sau đây sẽ cho thấy điều đó
- Nguyên lý phát
triển
Nguyên
lý khẳng định tinh thần tuyệt đối là điểm xuất phát và nền tảng của hiện thực
gắn liền với nguyên lý phát triển. Khác với các nhà siêu hình, Hegel coi sự
phát triển không chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về lượng, hay sự dịch chuyển vị
trí của vật về không gian. Ông hiểu sự phát triển là một quá trình phủ định
biện chứng, trong đó liên tiếp diễn ra sự thay thế cái cũ bằng cái mới, đồng
thời kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ mà vẫn có khả năng thúc đẩy phát
triển: "cái nụ hoa biến mất khi hoa nở, và có thể nói rằng nó bị hoa phủ
định; và tương tự như vậy có thể nói khi quả xuất hiện thì sự tồn tại của hoa
bị coi là vô lý, thay thế cho sự hợp lý trước đây của hoa thì giờ đây là quả.
Những hình thái trên đây không chỉ khác nhau mà còn bài trừ không dung hợp
nhau. Tuy nhiên bản chất sống động làm chúng trở thành những yếu tố của một
chỉnh thể hữu cơ, trong đó chúng không những không mâu thuẫn nhau mà cái này
cũng tất yếu như cái kia. Và chỉ có tính tất yếu như nhau đó mới tạo nên cuộc sống
của chỉnh thể" (G.V.Ph. Hegel "Hiện tượng học tinh thần" các tác
phẩm. Tiếng nga. Matxcơva. 1959, t.4.tr.2). Đó là thực chất của sự phát triển
theo quan niệm của Hegel. Chính ở tác phẩm này đã hình thành tư tưởng của Hegel
cho rằng không thể hình dung (hiểu được) kết quả của sự phát triển nếu thiếu
lịch sử của nó.
Sự
phát triển diễn ra theo xu hướng từ trừu tượng đến cụ thể, từ khái niệm còn
nghèo nàn, phiến diện đến khái niệm phong phú hơn về nội dung trong một sự
thống nhất chỉnh thể. Cần đặc biệt lưu ý rằng, Hegel rất coi trọng tính cụ thể
của khái niệm. Lần đầu tiên ông coi nguyên lý đi từ trừu tượng tới cụ thể là
một trong những nguyên lý cơ bản trong vận động các khái niệm logic học. Như
vậy, trừu tượng và cụ thể, theo Hegel là hai cấp độ nhận thức, hai cấp độ phát
triển khác nhau của ý niệm tuyệt đối. Sự vận động của ý niệm tuyệt đối từ trừu
tượng tới cụ thể là quá trình vận động từ đơn giản, sơ khai tới phức tạp, tới
sự hoàn thiện hơn.
Xuất
phát từ quan niệm phát triển như một quá trình vận động liên tục theo quy luật
phủ định của phủ định, Hegel cố gắng luận chứng rằng: cơ sở sâu xa nhất của mọi
sự vật là ý niệm tuyệt đối (tinh thần tuyệt đối) phát triển theo nguyên tắc tam
đoạn thức: chính đề-phản đề-hợp đề, trong đó giữa các yếu tố đều có mối liên hệ
hữu cơ, chuyển hoá lẫn nhau.
Theo
Hegel, trên thế gian này, ngoài tinh thần tuyệt đối và các hình thức biểu hiện
cụ thể của nó ra thì không còn gì khác cả.
Ý
thức con người là sản phẩm của lịch sử: Trong "Hiện tượng học tinh
thần" Hegel đã tiếp cận được quan niệm coi nhân cách, ý thức con người
là sản phẩm của lịch sử (cố nhiên lịch sử theo quan điểm duy tâm của ông). Sự
phát triển của lịch sử luôn mang tính kế thừa, mỗi thời đại lịch sử là kết quả
của cả một tiến trình phát triển trước đó. Vì vậy, quá trình phát triển ý thức
của mỗi người là sự khái quát lại, sự "đi tắt" (lặp lại và thu gọn)
toàn bộ những gì mà lịch sử ý thức nhân loại đã trải qua. Hoạt động của con
người càng phát triển bao nhiêu thì ý thức càng mang bản chất xã hội bấy nhiêu.
Ở đây, Hegel đã tiến dần đến quan niệm về bản chất xã hội của ý thức, vai trò
của lao động trong việc hình thành ý thức. Ông nhận thấy rằng sự phát triển của
ý thức diễn ra thông qua ý thức của nô lệ chứ không phải qua ý thức ông chủ.
Mác
nhìn thấy tầm vóc của "Hiện tượng học tinh thần" của Hegel ở chỗ nhà
triết học đã "tóm được bản chất của lao động", hiểu con người
"như là sản phẩm của lao động của chính mình".
2. Khoa học logic
Logic
học là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hegel bởi đối tượng của nó là ý
niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất phát và nền tảng
của toàn bộ hệ thống. Thế giới quan duy tâm là cơ sở để Hegel giải quyết các
vấn đề trong logic học của ông.
Thế
giới ý niệm là giao điểm quan trọng giữa học thuyết Platon và học thuyết Hegel.
Giống như Platon, Hegel cũng quan niệm cơ sở của các sự vật cảm tính là các ý
niệm, đó là lực lượng định hướng thế giới kinh nghiệm. Tồn tại của ý niệm là
tồn tại chân chính. Cũng chính vì vậy mà học thuyết về bản nguyên đầu tiên của
thế giới được Hegel gọi là "logic học". Lôgic học" của Hegel là
học thuyết về bản nguyên siêu cảm tính, hợp lý, tinh thần của tồn tại, về
"cái hiện hữu chân chính". Do vậy, Logic học của ông trùng hợp với
siêu hình học, mà trước hết là trùng hợp với bộ phận cơ bản của nó - bản thể
luận. Mỗi hệ thống triết học dưới một hình thức nào đó đều phải được xây dựng
căn cứ trên một bản thể luận xác định. Ở Hegel, đó là logịc học với ý niệm
tuyệt đối của nó.
Logíc
là khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư duy. Từ quan điểm
xuất phát về sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, Hegel coi logic học là bộ
phân quan trọng nhất trong hệ thống triết học của ông bởi ông cho rằng quy luật
của tư duy mà logic học nghiên cứu cũng chính là quy luật đích thực của tồn
tại: của giới tự nhiên, của lịch sử nhân loại và của cả nhận thức.
Tư
duy với tư cách là đối tượng của khoa học logic được Hegel hiểu là tư tưởng
thuần túy, là tinh thần tuyệt đối hay dưới khía cạnh tôn giáo đó là Chúa. Hegel
không hiểu tư duy theo nghĩa hẹp, bó gọn trong phạm vi ý thức cá nhân như một
khả năng nhận thức chủ quan của con người mà theo nghĩa rộng. Đó là tinh thần
tuyệt đối sáng tạo ra cả giới tự nhiên và con người. Tư duy con người là giai
đoạn phát triển cao nhất, trong đó tinh thần tuyệt đối có khả năng ý thức được
bản thân nó.
Phê
phán các học thuyết về logic học trước đây thường chỉ đề cập đến hình thức mà
không đi vào nội dung, Hegel cho rằng logic học phải là một khoa học về những
nguyên tắc chung nhất của tư duy và tồn tại. Ông xem ý niệm tuyệt đối là đối
tượng của logic học còn hiện thực chỉ xem như một quá trình của logic.
"logic học", theo Hegel, là "sự mô tả thượng đế như nó hiện hữu
trong bản chất vĩnh hằng của mình, trước khi sáng tạo ra giới tự nhiên và bất
kỳ một tinh thần hữu hạn nào". Logic học đem lại cho chúng ta các tính quy
định đặc trưng của Thượng đế dưới dạng thuần tuý. Còn triết học tự nhiên và
triết học tinh thần mô tả quá trình tự hiện thực hoá của Thượng đế. Quan niệm
tư duy như là nền tảng khởi nguyên của tất cả mọi cái đang tồn tại, Hegel đã
coi logic học là học thuyết về bản chất của tất cả mọi sự vật.
Mặc
dù có sự khác nhau nhất định giữa "Hiện tượng học tinh thần" (1807)
và "Khoa học logic" (1812-1816) trong việc xây dựng hệ thống, nhưng
chủ yếu logic học của Hegel được xây dựng trên những nguyên lý cơ bản đã được
khởi thảo trong hiện tượng học tinh thần.
Phù
hợp với tiến trình nhận thức đi từ hiện tượng tới bản chất, từ nhận thức cảm
tính tới nhận thức lý tính, khái niệm, Hegel chia logic học của mình thành ba
học thuyết (học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất và học thuyết về khái
niệm) nghiên cứu ba giai đoạn tương ứng của tinh thần tuyệt đối: tồn tại- bản
chất- khái niệm. Logic học của Hegel đã nghiên cứu và tìm ra những mối liên hệ
và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các khái niệm chung nhất, giữa các phạm trù của
tư duy lý luận khoa học. Các khái niệm, phạm trù được hình thành trong quá
trình phát triển của nhận thức nhân loại, chẳng hạn như tồn tại, hư vô, sinh
thành, chất, lượng, độ, bản chất, hiện tượng, đồng nhất, khác biệt, mâu thuẫn,
tất yếu, ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực...được Hegel nghiên cứu trong
quá trình vận động không ngừng của chúng, trong sự biến đổi, chuyển hoá lẫn
nhau giữa chúng. Ông đã phát hiện ra những mâu thuẫn nội tại vốn có là động lực
cho sự phát triển của mọi sự vật. Sự phát triển diễn ra theo hướng từ trừu
tượng tới cụ thể. Ông phê phán mạnh mẽ quan niệm siêu hình về các mặt đối lập
và nhấn mạnh rằng, các mặt đối lập không phải là có tính tuyệt đối mà là tương
đối. Tất cả chúng chỉ tồn tại trong mối liên hệ, chuyển hoá từ cái này đến cái
kia trong sự phát triển. Học thuyết của ông về biện chứng của tư duy, về mối
liên hệ và vận động của các khái niệm đã gián tiếp vạch ra nội dung và tính quy
luật của quá trình vận động và phát triển của mọi sự vật không lệ thuộc vào
nhận thức và tư duy của con người. Cố nhiên, Hegel chẳng thể bịa ra được biện chứng
của khái niệm. Nguồn gốc đích thực của phép biện chứng ấy chính là biện chứng
hiện thực khách quan của các sự vật, các quá trình trong tự nhiên và xã hội.
Khi
nghiên cứu về bản chất với tư cách là một phạm trù triết học, Hegel cho rằng
phải quy về bản chất tất cả những gì phân biệt các hiện tượng với nhau, và cả
những gì là giống nhau, là đồng nhất trong các hiện tượng ấy. Nhưng theo Hegel,
đồng nhất và khác biệt không tồn tại tách rời nhau, mà đối lập nhau nhưng gắn
bó với nhau của bản chất. Khác với quan niệm siêu hình về đồng nhất như là đồng
nhất trừu tượng, loại bỏ sự khác biệt, quan niệm biện chứng hiểu đồng nhất là
đồng nhất cụ thể bao hàm trong nó sự khác biệt. Mỗi vật là một sự đồng nhất cụ
thể, hàm chứa trong nó cái đối lập, cái phủ định của nó, hàm chứa trong nó cái
sẽ có. Theo Hegel, nhận thức về quan hệ giữa đồng nhất và khác biệt sẽ phát hiện
ra mâu thuẫn chứa trong cơ sở của sự đồng nhất và khác biệt ấy. Ông nhấn mạnh
rằng, không nên coi mâu thuẫn là một cái gì xấu đối với các sự vật; phải coi
mâu thuẫn là mối liên hệ qua lại, là sự lệ thuộc, quy định lẫn nhau của các mặt
đối lập, là nguyên tắc của mọi sự tự thân vận động.
Gắn
liền với mâu thuẫn là quan niệm của ông về phủ định. Hegel phân biệt phủ định
trừu tượng (phủ định sạch trơn) với phủ định cụ thể. Phủ định cụ thể không chỉ
đơn giản xoá bỏ cái cũ mà còn giữ lại những yếu tố mầm mống, tạo khả năng sống
cho sự vật, tức là phủ định có kế thừa và chọn lọc. Hegel gọi sự phủ định như
thế là sự vượt bỏ và cho rằng, sự phát triển tất yếu đưa tới phủ định bởi phủ
định không phải là sự gán ghép từ bên ngoài mà là kết quả của quá trình phát
triển tất yếu của sự vật. Chính sự phủ định đó là một nấc thang trong quá trình
phát triển nên bản thân nó cũng phải chịu sự phủ định trong tiến trình tiếp
theo của sự vật. Đó chính là phủ định của phủ định mà kết quả dường như quay về
cái cũ nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Bản thân sự giải quyết mâu thuẫn
cũng chính là sự phủ định của cái mới đối với cái cũ, là sự phá vỡ độ dẫn đến
sự hình thành chất mới.
Với
những nghiên cứu về các quy luật chung nhất của sự biến đổi và phát triển của
mọi sự vật, Hegel đã giáng một đòn nặng nề vào quan niệm siêu hình về tính bất
biến của mọi sự vật. Ông khẳng định quá trình phát triển là sự biến đổi không
chỉ về bề ngoài, mà cả bên trong, không chỉ về hiện tượng mà cả về bản chất với
tất cả những tính quy luật vốn có của nó (nguyên nhân, kết quả, tất yếu, ngẫu
nhiên..). Ông giải thích quá trình đó một cách duy tâm, coi quá trình phát
triển của mọi sự vật là sự phát triển của tư duy, của ý niệm tuyệt đối, của
khái niệm.
Học
thuyết về khái niệm là nội dung thứ ba, kết thúc logic học của Hegel. Ở đây,
Hegel hiểu khái niệm là hình thức thể hiện tinh thần tuyệt đối. Với tư cách là
sự thống nhất giữa cái chung, cái riêng và cái đặc thù, khái niệm được triển
khai trong các dạng phán đoán và suy lý khác nhau. Trong khi chúng ta coi khái
niệm là hình thức thể hiện tư duy lý luận, được coi như sự phản ánh, nhận thức
thế giới khách quan, thì Hegel coi sự triển khai khái niệm trong các dạng phán
đoán và suy lý như sự bộc lộ sức mạnh sáng tạo vốn có của khái niệm với tư cách
là cơ sở bên trong của tất thảy mọi vật trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Hegel
chia khái niệm thành: khái niệm chủ quan; khái niệm khách quan và khái niệm
tuyệt đối (ý niệm)
Trong
phần khái niệm tuyệt đối, Hegel cũng đã đặt vấn đề về mối quan hệ thống nhất và
tác động lẫn nhau giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn. Theo ông,
logic cũng xét đến vấn đề đời sống vì những hình thức của logic đều có nội
dung. Lênin nhận xét, Mác đã gắn bó trực tiếp với nhà triết học duy tâm Đức khi
ông đưa tiêu chuẩn thực tiễn vào lý luận nhận thức.
Lênin
đánh giá cao phần kết này của logic học Hegel (bút ký triết học) bởi ở đây,
Hegel đặt ra một loạt các vấn đề như: vai trò của thực tiễn đối với nhận thức,
tuy quan niệm macxit về thực tiễn đối lập với quan niệm của Hegel, bởi vì ở nhà
duy tâm, thì thực tiễn, các hoạt động chính trị, tôn giáo... kể cả các hoạt
động sản xuất vật chất cho xã hội rốt cuộc cũng chỉ là các dạng hoạt động tinh
thần, là hoạt động của ý niệm tuyệt đối, là quá trình vận động và tự nhận thức
chính bản thân mình của ý niệm tuyệt đối.
Tóm
lại, logic học của Hegel là logic biện chứng trong đó nhà triết học Đức dưới
hình thức duy tâm trình bày các quy luật và các cặp phạm trù cơ bản của phép
biện chứng một cách đầy đủ, minh bạch và rõ ràng nhất. Cố nhiên, những luận điểm
về phép biện chứng được Hegel trình bày trong cả ba phần nhưng trong logic thể
hiện rõ nhất, quan trọng nhất. Phép biện chứng của Hegel là một thành tựu vĩ
đại của triết học cổ điển Đức. Hegel là người có công trong việc phê phán tư
duy siêu hình và ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên lịch sử
và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát
triển không ngừng. Đó cũng chính là "ý nghĩa thật sự và tính chất cách
mạng của triết học Hegel". "Đối với triết học biện chứng của Hegel,
không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra tính chất
quá độ của một sự vật. Đối với nó, không có gì tồn tại ngoài quá trình không
ngừng của sự hình thành và của sự tiêu vong, của sự tiến triển vô cùng tận từ thấp
đến cao".
Trong
logic học của mình, Hegel không chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng, độ,
phủ định, mâu thuẫn... mà còn nói đến cả các quy luật như "quy luật lượng
đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại", "phủ định của phủ định", và
phần nào về quy luật mâu thuẫn. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động,
phát triển của tư duy, của khái niệm. Đó là phép biện chứng duy tâm - tức là
phép biện chứng về sự phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với bản
chất sự vật. Vì vậy, Lênin nói, muốn thấy được giá trị đích thực của phép biện
chứng của Hegel, phải nghiên cứu triết học của ông trên tinh thần duy vật -
nghĩa là phải luôn luôn lật ngược lại vấn đề: biện chứng của tự nhiên sản sinh
ra biện chứng tư duy.
Phương
pháp tư duy biện chứng của triết học Hegel được Mác, Engel, Lênin và các nhà
duy vật macxit sau này tiếp thu và phát triển. Theo nghĩa đó Lênin nhấn mạnh,
không thể hiểu được "Tư bản" của Mác (và nói chung triết học Mác) nếu
như không đọc logic học của Hegel.
3. Triết học tự
nhiên của Hegel
Triết
học tự nhiên, theo Hegel, là sự nghiên cứu lý luận về giới tự nhiên được hiểu
như sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật vật chất. Vì vậy, quá trình
hình thành giới tự nhiên đồng thời cũng là quá trình tinh thần ngày càng biểu
hiện ra thành giới tự nhiên.
Giới
tự nhiên, theo cách hiểu của Hegel, là một chỉnh thể thống nhất trong đó mọi sự
vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau, đều không ngừng vận động và phát triển.
Sự phát triển của giới tự nhiên diễn ra dưới nhiều cấp độ khác nhau về chất như
cơ học, vật lý, hoá học, địa chất, sự sống... với bản chất và đặc tính vận động
tương ứng. Phê phán quan niệm cơ học về thế giới thống trị trong khoa học tự
nhiên thời đó, Hegel khẳng định đặc thù riêng của từng giai đoạn phát triển của
tự nhiên. Vì vậy, để nhận thức đúng về giới tự nhiên cần phải xem xét sự vật
phù hợp với tính chất của từng giai đoạn phát triển của nó.
Đối
lập với quan niệm của Nguồn tách không gian, thời gian với các quá trình vận
động của các sự vật vật chất, Hegel ủng hộ quan niệm của Lepnit về vấn đề này,
hiểu rằng "các sự vật tiêu vong không phải vì chúng nằm trong thời gian,
mà vì bản thân chúng là cái nhất thời". Thời gian cũng như không gian phải
được hiểu như sự sinh thành của mọi vật. Cũng như Kant thời kỳ tiền phê phán,
Hegel có ý đồ muốn đem lại một cái nhìn lịch sử về tự nhiên, về thế giới. Vũ
trụ của chúng ta không phải ngay từ đầu đã có trạng thái như hiện nay. Tuy
nhiên, nhà biện chứng lỗi lạc lại diễn tả tư tưởng đó một cách duy tâm. Ông khẳng
định là chỉ có ý niệm mới có thể chuyển hoá thành giới tự nhiên. Và sự chuyển
hoá này diễn ra liên tục, không ngừng: "Thế giới được tạo ra, hiện đang
được tạo ra, và sẽ vĩnh viễn được tạo ra" bởi tinh thần tuyệt đối.
Tuy
triết học tự nhiên của Hegel chứa đựng một số tư tưởng quý giá nhưng theo ý
kiến của nhiều nhà nghiên cứu, nó vẫn là khâu yếu nhất trong hệ thống của ông
bởi vì thứ nhất, hơn bất cứ lĩnh vực nhận thức nào khác, khoa học tự
nhiên sớm thoát khỏi các quan niệm duy tâm thần bí về tự nhiên. Thứ hai, Hegel dã không tổng kết được, nói
cách khác, không lĩnh hội được những phát kiến của khoa học tự nhiên đương
thời. Điều này dễ hiểu bởi với Đêcáctơ, Lepnhit, Hegel không phải là nhà KHTN).
"Quan điểm duy tâm và siêu hình về tự nhiên nói chung, sự phủ nhận tư
tưởng phát triển... đã khiến triết học tự nhiên của Hegel trở nên lạc
hậu hơn nhiều so với Kant thời kỳ tiền phê phán" (nhận xét của Engel trong
chống Đuyring. 1957.Tr.11-12).
Toàn
bộ triết học tự nhiên duy tâm của Hegel đưa đến một cấu tạo giả tạo về giới tự
nhiên, lấy ý niệm thay thế cho sự nghiên cứu khoa học về cơ sở vận động và phát
triển của thế giới đó. Nó mâu thuẫn với những tài liệu của KHTN. Và vì theo
quan điểm của ông, trong giới tự nhiên, tinh thần không thể có sự toàn vẹn
thống nhất, đặc điểm của hiện tượng tự nhiên là tản mạn và hữu hạn cho nên muốn
đạt đến sự toàn vẹn của nó, tinh thần thế giới phải trở lại lĩnh vực của nó
nhưng trở lại mà càng phong phú thêm do sự lưu lại ở những lĩnh vực tồn tại
khác. Để phù hợp với hệ thống triết học của mình, ông chuyển sang vấn đề triết
học tinh thần.
4. Triết học pháp
quyền và triết học lịch sử
Các
quan niệm chính trị - xã hội và lịch sử của Hegel được trình bày trong
"Hiện tượng học tinh thần", trong "Bách khoa toàn thư các khoa
học triết học" và đặc biệt trong triết học lịch sử và triết học pháp
quyền.
Trong
triết học pháp quyền và triết học lịch sử, Hegel thể hiện những quan điểm cơ
bản của mình về các vấn đề phát triển xã hội, trong đó đặc biệt quan tâm nghiên
cứu bản chất và nguồn gốc của nhà nước, vì theo ông "chỉ có nhà nước là
thực hiện tự do". Nhờ nó, gia đình và xã hội công dân được bảo tồn, đời
sống xã hội cũng như những mâu thuẫn giữa các đẳng cấp, tầng lớp xã hội mới
được điều hoà. Nhà nước là "sự ngao du" của chúa trời trong xã hội
loài người, là sự thể hiện tinh thần tuyệt đối.
Khác
với các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII đấu tranh vì một xã hội đem lại tự do,
bình đẳng cho mọi người, Hegel cho rằng "luận điểm khẳng định mọi người
về bản tính vốn bình đẳng là không đúng mà phải nói ngược lại rằng con
người về bản tính vốn là bất bình đẳng. Từ đó ông coi bất công, tệ nạn
xã hội là những hiện tượng tất yếu của sự phát triển xã hội xuất phát từ bản
tính con người. Bởi vậy trong xã hội thường xuyên xảy ra xung đột, mâu thuẫn
giữa các giai cấp, giữa cá nhân và xã hội. Và chính sự nảy sinh không ngừng và
giải quyết những mâu thuẫn giữa các quan hệ xã hội đó là một trong những động
lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Và
cũng chính vì những mâu thuẫn đó mà nhà nước xuất hiện. Nhà nước ra đời nhằm
dung hoà các mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo, giữa các đẳng cấp và
định hướng cho xã hội phát triển. Nhà nước, theo Hegel không chỉ là cơ quan
hành pháp mà là tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực của mọi lĩnh vực đạo
đức, pháp quyền, chính trị, văn hoá.v.v. của xã hội, nhờ đó mỗi quốc gia
mới có thể phát triển bình thường. Vì thế nhà nước tồn tại trong bất kỳ giai
đoạn nào của lịch sử.
Lập
trường giai cấp và tư tưởng dân tộc hẹp hòi đã đưa ông đến một số mâu thuẫn
trong lập luận. Chẳng hạn, theo quan niệm biện chứng, mâu thuẫn xã hội được coi
là động lực phát triển của lịch sử. Ông cho rằng nhờ có các cuộc chiến tranh mà
thể trạng đạo đức của các dân tộc được bảo toàn... chiến tranh bảo vệ
các dân tộc tránh khỏi sự thối nát. Song mặt khác, nhằm bảo vệ sự thống trị của
nhà nước quý tộc Phổ, Hegel lại chủ trương dung hoà các mâu thuẫn đối kháng của
xã hội Đức thời đó. Hegel đề cao chế độ quân chủ Phổ, coi nó như đỉnh cao của
sự phát triển nhà nước và pháp luật. Ông coi chiến tranh là hiện tượng tự
nhiên, vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử. Học thuyết chiến tranh của ông chứa
đầy quan điểm sôvanh phản động, đề cao dân tộc Đức, cho dân tộc đức là bậc thầy
của các dân tộc phương Tây. Hegel chủ trương thoả hiệp với hiện thực chứ không
nên thực hiện cách mạng vì theo ông "tất cả cái gì là hiện thực đều là hợp
lý và tất cả cái gì là hợp lý thì đều là hiện thực". Rằng không nên can
thiệp vào sự tự phát triển của tinh thần tuyệt đối vì nó là thiên mệnh.
Quan
niệm của Hegel về lịch sử cũng có một số tư tưởng có giá trị. Ông cho lịch sử
là phương thức tồn tại của con người, là kết quả hoạt động của con người nhưng
nó diễn ra theo quy luật khách quan và tất yếu chứ không tuân theo cái gậy chỉ
huy của riêng ai đó. Tiến trình lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan
và tính chủ quan trong hoạt động của con người. Vai trò của các vĩ nhân, theo
Hegel, là ở chỗ họ là "những người suy nghĩ và hiểu được những gì là cần
thiết và những gì là hợp thời, tức là hoạt động phù hợp với xu hướng của thời
đại mình. Bản thân mỗi con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất
định. Không ai có thể nhảy ra khỏi thời đại mình tựa như nhảy ra khỏi cửa sổ
vậy, cũng không ai có quyền phán xét lịch sử phải diễn ra như thế này hay thế
khác. Cá nhân nào, lực lượng xã hội nào tìm cách đảo ngược xu thế tất yếu khách
quan của tiến trình lịch sử nhân loại thì nó sẽ phải trả giá đắt cho những hoạt
động phiêu lưu của mình. Lịch sử các dân tộc cũng đều phát triển trong khung
cảnh lịch sử thế giới, trong dòng lịch sử chung.
Hegel
khẳng định con người là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình lao động của
mình. Ông đã tiếp cận được tư tưởng đề cao vai trò tích cực của hoạt động thực
tiễn và nền tảng kinh tế đối với sự phát triển của đời sống xã hội cũng như
tiến trình lịch sử. Ông đã thấy được vai trò của phân công lao động xã hội cũng
như tính xã hội của lao động. Tuy nhiên, thứ nhất, dưới góc độ duy tâm, bản
thân hoạt động thực tiễn của con người thực chất vẫn bị Hegel coi là dạng hoạt
động tinh thần. Thứ hai, do chưa thoát khỏi lập trường giai cấp của mình, ông chưa
đánh giá đúng mức vai trò sản xuất vật chất của quần chúng đối với sự phát
triển xã hội, mặc dù khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận.
Khẳng
định "lịch sử toàn thế giới là sự tiến bộ trong ý thức tự do" Hegel
coi sự phát triển về tự do là chuẩn mực cơ bản đánh giá sự ưu việt của thời đại
này so với thời đại khác. Trên cơ sở đó ông chia lịch sử thế giới thành 4 thời
kỳ: tiền sử, Phương đông cổ đại, Hy lạp - La mã cổ đại và nước Đức cơ đốc giáo
trung và cận đại. Chỗ hợp lý của quan điểm này là nó coi trình độ phát triển
của tư duy nhân loại, cũng như sự giải phóng của con người là tiêu chí đánh giá
lịch sử song hạn chế của nó là ở chỗ tiêu chí đó không thể coi là cơ sở duy
nhất để phân kỳ và đánh giá sự tiến bộ lịch sử. Hơn thế nữa Hegel hiểu tự do
dưới góc độ duy tâm, coi đó là sự nhận thức và thực hiện những quy luật tất yếu
của tự nhiên với tư cách là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, hay dưới góc độ tôn
giáo, "tự do con người thể hiện trong sự hiểu biết và làm theo ý
Chúa".
Nhìn
chung triết học pháp quyền và triết học lịch sử của Hegel, bên cạnh những hạn
chế bởi lập trường duy tâm và tính giai cấp hẹp hòi, chứa đựng nhiều tư tưởng
sâu sắc về sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch sử, làm nền tảng cho
quan niệm duy vật về lịch sử sau này của Mác coi sự phát triển xã hội như một
quá trình lịch sử tự nhiên. Cũng vì vậy, Ăngghen đánh giá công lao của Hegel ở
chỗ đã vạch ra rằng:
-
Sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật.
-
Sự phát triển của lịch sử không phải tuần hoàn và luôn luôn đi lên (tuy quan điểm
này của Hegel chưa thật triệt để)
-
Mỗi thời đại lịch sử đều có những đặc điểm riêng
-
Quá trình phát triển của lịch sử có sự liên hệ, kế thừa, giữa các giai đoạn
trước và sau không tách rời.
5. Thẩm mỹ học
Triết
học nghệ thuật của Hegel đóng vai trò to lớn trong sự phát triển tư tưởng thẩm
mỹ học thế giới. Đây là cách thức con người tiêu khiển thời gian nhằm thoả mãn
nhu cầu tinh thần của mình.
Nghệ
thuật thể hiện tinh thần tuyệt đối bằng các hình tượng nghệ thuật theo tiêu chí
của cái đẹp. Cái đẹp là hình thức thể hiện đặc biệt của ý niệm. Sự sáng
tạo nghệ thuật, theo Hegel vừa mang tính chủ quan của con người, vừa mang nội
dung khách quan nhất định. Toàn bộ nghệ thuật phải hướng đến con người theo
những nguyên tắc của chủ nghĩa nhân đạo.
Hegel
đã phát triển 5 ngành mỹ thuật: kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, âm nhạc và thi
ca.
Cống
hiến của Hegel trong lĩnh vực mỹ học là ở chỗ ông đặt vấn đề về sự cần thiết
phải xem xét nghệ thuật trong mối liên hệ hữu cơ của nó với các lĩnh vực hoạt
động khác của con người như kinh tế, chính trị, đạo đức và các vấn đề lịch sử
của thời đại, trong đó nghệ thuật là một bộ phận, một hình thức thể hiện tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Tóm
lại, dưới hình thức duy tâm coi nghệ thuật là hình thức thể hiện tinh thần
tuyệt dối thông qua các hình tượng nghệ thuật, thẩm mỹ học Hegel đóng vai trò
to lớn trong sự phát triển tư tưởng thẩm mỹ thế giới. Nó khẳng định nghệ thuật
như một phương thức nhận thức những lợi ích sâu xa của con người, đồng thời đem
lại một cái nhìn biện chứng về tiến trình phát triển của nghệ thuật thế giới.
Cũng
như triết học Kant, triết học Hegel có ảnh hưởng lớn tới tiến trình lịch sử tư
tưởng nhân loại. Nó có đông đảo các môn phái như phái Hegel già, phái Hegel
trẻ,...Nhưng chỉ có các nhà kinh điển Mác- Lênin kế tục được phương pháp
biện chứng- di sản quý báu nhất của triết học Hegel.