Vietnam-vẻ đẹp Á Đông

Vietnam-vẻ đẹp Á Đông

Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

LÚTVÍCH PHOIƠBẮC (1804 - 1872)

                                                     
Lútvích Phoiơbắc là một đại biểu lỗi lạc của nền triết học cổ điển Đức, nhà duy vật lớn nhất của triết học thời kỳ trước Mác, nhà vô thần, bậc tiền bối của triết học Mác. Ông sinh năm 1804 trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức. Ông đã theo học ở trường đại học tổng hợp Beclin, tham gia phái Hegel trẻ. Về sau ông tách khỏi phái này, trở thành người phê phán hệ thống của Hegel, xây dựng hệ thống triết học duy vật riêng của mình. Các tác phẩm triết học lớn của ông là "Những nguyên lý cơ bản của triết học tương lai" (l843); "Bản chất của cơ đốc giáo", "lịch sử triết học". Trong các tác phẩm này Phoiơbắc luận chứng cho những quan điểm duy vật của ông.
1. Sự phê phán triết học Hegel. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của phoiơbắc.
Sau khi Hegel qua đời, những người theo học thuyết Hegel đã phân hoá thành hai nhóm là "Hegel trẻ" và "Hegel già". Phái Hegel già thì bám lấy mặt bảo thủ của hệ thống Hegel, bảo vệ chế độ nhà nước Phổ đã lỗi thời về mặt lịch sử. Trái lại phái Hegel trẻ lại phát triển triết học Hegel về phía lập trường giai cấp tư sản cấp tiến, dân chủ, đòi cải cách nhà nước Phổ theo hướng tư sản. Họ nắm lấy tinh thần của phép biện chứng trong triết học Hegel. Trong nhóm "Hegel trẻ" có cả Phoiơbắc, Mác và Engels.
Thời trẻ, Phoiơbắc gia nhập phái Hegel trẻ, tin rằng tôn giáo, các khái niệm của tinh thần tuyệt đối thống trị thế giới hiện thực. Về sau, chịu ảnh hưởng của các nhà khai sáng pháp TK XVIII Phoiơbắc quay sang phê phán Hegel, ngày càng ngả sang lập trường duy vật. Hạn chế cơ bản nhất của triết học Hegel, theo Phoiơbắc, là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, là quan điểm duy tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu như một lực lượng siêu tự nhiên. Phoiơbắc vạch ra sự liên kết chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy tâm và thần học nhằm nô dịch con người (coi ý niệm tuyệt đối tha hoá thành giới tự nhiên cũng giống như quan niệm Chúa trời tạo ra thế giới). Phoiơbắc chỉ ra rằng Hegel chỉ khác thần học ở chỗ ông đã sử dụng một hình thức khác để diễn đạt tư tưởng của mình, tức là ông đã biến lịch sử thần học thành cái gọi là tư duy logic mà thôi. Vì vậy, Phoiơbắc cho rằng: "Triết học Hegel là chỗ ẩn náu cuối cùng của thần học... mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại như sau: tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính."
Đối lập với triết học Hegel, Phoiơbắc cho rằng con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần tuyệt đối mà là sản phẩm cao nhất của tự nhiên; con người là biểu hiện của sự phát triển hoàn thiện nhất của giới tự nhiên. Vì vậy, nhận thức con người là nền tảng và chìa khoá để nhận thức thế giới. Phoiơbắc nói rằng, phải giải quyết vấn đề quan hệ tư duy - tồn tại trên lập trường duy vật. Tư duy là chức năng của một dạng vật chất có tổ chức cao là cơ thể người. Bản thân con người cụ thể là sự thống nhất giữa thể xác của anh ta với tư duy là chức năng của cơ thể đó, giữa cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu và sinh lý. Coi con người là sự thể hiện hoàn hảo mối quan hệ tư duy - tồn tại, Phoiơbắc khẳng định chỉ có thể giải quyết vấn đề vật chất - tinh thần trong nhân bản học, quy các vấn đề triết học thành các vấn đề quan hệ giữa các ngành khoa học nghiên cứu giải phẫu và sinh lý, cấu trúc và chức năng. Chân lý, theo phoiơbắc, không phải là CNDV hay CNDT... chân lý chỉ có thể là nhân bản học, tức học thuyết về con người.
Vậy con người là gì? Phoiơbắc cho rằng đó là những con người bằng xương, bằng thịt đang sống và làm việc, là chính bản thân chúng ta chứ không phải là con người trong trí tưởng tượng. Hơn tất các sự vật hiện tượng khác trong giới tự nhiên, con người là một thực thể sinh vật có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, có hoài bão, khát vọng, là một bộ phận của tự nhiên mà xét theo bản chất là có tình thương yêu.
Con người trong triết học phoiơbắc là con người cụ thể bằng xương, bằng thịt. Bản chất con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu cầu của anh ta. Phoiơbắc cũng nhận thấy ảnh hưởng to lớn của môi trường, điều kiện sống, hoàn cảnh đối với tư duy và ý thức con người. Ông quả quyết rằng trong cung điện người ta suy nghĩ khác trong lều tranh. Rằng nếu cơ thể một người đói chất thì trong đầu óc và trái tim anh ta cũng không có chất cho đạo đức và các quan niệm khác. Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc ở đây là ông chưa thấy con người xã hội, không thấy rằng con người được tạo nên và bị chi phối bởi các quan hệ xã hội như thế nào. Ông chỉ xét con người về mặt sinh học mà thôi (là một bộ phận của tự nhiên, tách rời các điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử.
Khi nghiên cứu và đánh giá sự phê phán của Phoiơbắc đối với Hegel cũng như học thuyết của ông về con người chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
Thứ nhất, Phoiơbắc phê phán Hegel trên lập trường nhân bản học duy vật, phê phán ý niệm tuyệt đối của Hegel nhưng đồng thời lại phủ nhận luôn cả phương pháp tư duy biện chứng của Hegel. Phoiơbắc tuyên bố: "phép biện chứng không phải là sự độc thoại của một nhà tư tưởng với chính bản thân mình, mà là sự đối thoại giữa Tôi và Anh". Phương pháp biện chứng trên thực tế đã bị phoiơbắc tầm thường hoá, quy thành mối quan hệ giao tiếp thông thường giữa mọi người trong xã hội. Đây là hạn chế cơ bản của Phoiơbắc trong việc phê phán và đánh giá triết học Hegel.
Thứ hai, con người được Phoiơbắc hiểu theo nghĩa cá thể (individium).
Mỗi người đều có những nét riêng biệt mà không ai có, vì vậy bản chất của con người rất da dạng. "tất cả chúng ta là những con người, nhưng mỗi con người lại là một người khác"
Quan niệm trên đây của Phoiơbắc về con người có điểm hợp lý ở chỗ nó được xây dựng trên nền tảng duy vật. Hơn nữa nó đề cao tính cá thể của con người, nhấn mạnh sự năng động và sáng tạo cá nhân của con người cũng như những lợi ích, nhu cầu cá nhân của con người. Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc là ở chỗ ông không nhận thấy bản chất xã hội của con người, cũng như vai trò của hoạt động thực tiễn con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Ông không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là cá thể nhưng lại sinh ra trong một hoàn cảnh xã hội nhất định; thuộc một tầng lớp hoặc giai cấp nhất định, thuộc một dân tộc và một thời đại lịch sử nhất định. Vì vậy, theo nhận xét của Engel, con người của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai cấp... và vì vậy, cực kỳ trừu tượng. Rốt cuộc quan niệm của Phoiơbắc về con người, kể cả xét theo khía cạnh cá thể được coi là điểm mạnh nhất ở ông, cũng phải nhường bước cho một số nhà tâm sinh lý học đương thời và sau ông như Freud, ở khía cạnh xã hội, khía cạnh mà phoiơbắc hầu như không đề cập đến, về sau được Mác nghiên cứu
2. Quan niệm của Phoiơbắc về tôn giáo và cuộc đấu tranh chống tôn giáo.
Cụ thể hoá những quan niệm trên đây về con người, phơoibắc phân tích các vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo, theo ông, là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và bản chất con người. Người ta ai cũng sợ chết, cần có niềm tin, và an ủi. Bản chất của thần học, do vậy, chứa đựng trong nhân bản học, là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú của con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con người đối với các vấn đề xã hội.
Tôn giáo thực chất là sự thể hiện bản chất của con người dưới hình thức thần bí. Phoiơbắc nói: "Tư tưởng và dụng ý của con người như thế nào thì chúa của con người như thế. Giá trị của chúa không vượt quá giá trị con người. Ý thức của Chúa là tự ý thức của con người, nhận thức của chúa là tự nhận thức của con người". Thực ra "bản chất thần thánh không là cái gì khác, mà là bản chất của con người, nhưng đã được tinh chế, khách quan hoá, tách rời với con người hiện thực bằng xương, bằng thịt".
Tóm lại, tôn giáo là bản chất của con người đã bị tha hoá. "Thánh thần của con người có trong tinh thần và trái tim của anh ta". (L.Phoiơbắc: tuyển tập triết học. Matxcơva 1957. T.2. tr. 42 - 43- Tiếng Nga).
Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản đã chỉ ra nguồn gốc tâm lý, tình cảm và tâm linh của con người đối với tôn giáo, đòng thời cho thấy nội dung nhăn bản trong các quan niệm thần thánh nhưng chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế chính trị- xã hội và văn hoá của vấn đề.
Đây cũng là hạn chế chung của các nhà tư tưởng trước Mác trong việc lý giải nguồn gốc và bản chất của tôn giáo.
Tuy phê phán kịch liệt tôn giáo, nhưng Phoiơbắc thực tế chỉ phê phán Cơ đốc giáo. Còn tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều cần thiết đối với đời sống con người. Cho nên thay vào Cơ đốc giáo, con người "cần... một tôn giáo mới", vì chỉ có tín ngưỡng, niềm tin mới an ủi được chúng ta khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con người. Mặc dù sự an ủi trên là giả dối nhưng chúng ta không thể làm gì khác và phải chấp nhận sự dối trá đó. Đúng như Engel nhận xét rằng "Phoiơbắc hoàn toàn không muốn xoá bỏ tôn giáo, ông muốn hoàn thiện tôn giáo. Ngay cả triết học cũng phải hoà vào tôn giáo. Thứ tôn giáo mà Phoiơbắc đề cao hiểu theo nghĩa của ông là tôn giáo tình yêu, là quan hệ thân thiện giữa người và người. Tôn giáo tình yêu của Phoiơbắc dựa trên triết học nhân bản của ông. Ông cho rằng nó phản ánh được cái gì đó vĩnh hằng trong con người. Vì vậy, nó cần thiết phải tồn tại chừng nào xã hội loài người còn tồn tại. Và phải hình thành nên tình cảm tôn giáo.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng Phoiơbắc là nhà duy vật vĩ đại trong THCĐ Đức. Mác đánh giá cao vai trò của Phoiơbắc, coi ông là người không úp mở tuyên bố địa vị thống trị của chủ nghĩa duy vật. (trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung...). Mác và Engel tự coi mình là môn đồ của Phoiơbắc, giá trị tư tưởng đó của triết học phoiơbắc là điều không thể phủ nhận được.

GIOÓCGIƠ VINHEM PHRIDRICH HÊGHEN (HEGEL) (1770 - 1831)


G. V. P. Hegel là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của triết học macxít. Ông là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu tiêu biểu của nền THCĐ Đức. Ph.Engel coi ông "không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại"
Hegel xuất thân trong một gia đình quý tộc Phổ ở Xtutgat. Thời trẻ, ông chủ yếu quan tâm nghiên cứu các vấn đề lịch sử, pháp quyền và tôn giáo.
Từ 1800-1807 chịu ảnh hưởng của Senlinh, ông bắt đầu say mê các vấn đề triết học. Ông có các tác phẩm lớn như "hiện tượng học tinh thần" (l807). Tác phẩm này đánh dấu sự kết thúc quá trình hình thành thế giới quan triết học của Hegel thời kỳ đầu, đồng thời cũng cho thấy sự bất đồng nhất định giữa Hegel và Senlinh trong việc lý giải các vấn đề triết học.
Hegel viết tác phẩm lớn thứ hai của mình: "khoa học logic" (l812-1816).
Và tác phẩm lớn thứ 3 của ông "bách khoa toàn thư của các khoa học triết học" năm 1817. Và nhiều tác phẩm khác về lịch sử tôn giáo, lịch sử triết học, thẩm mỹ học...
1. Hiện tượng học tinh thần- cội nguồn và bí mật của triết học Hegel
Hiện tượng học tinh thần" (1807) đánh dấu sự chín muồi trong thế giới quan triết học của ông: về cơ bản, ông đã thoát khỏi ảnh hưởng của Senlinh và trên cơ sở kế thừa những tư tưởng hợp lý của Senlinh, ông bắt đầu đề ra những nguyên lý cơ bản nhằm xây dựng hệ thống triết học độc lập của mình. Mác gọi Hiện tượng học tinh thần là cội nguồn và bí mật của triết học Hegel.
- Tinh thần tuyệt đôi
Tinh thần tuyệt đối (hay còn gọi là ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, ý thức thượng đế..) là điểm xuất phát và nền tảng trong quan niệm về hiện thực.Tiếp thu những quan niệm của Senlinh về cái Tuyệt đối, Hegel coi nền tảng thế giới quan triết học của mình là tinh thần tuyệt đối được hiểu như đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và con người. Đối với ông, tư duy (tinh thần tuyệt đối, lý tính tuyệt đối) là nguồn gốc duy nhất của mọi cái đang tồn tại. Thế giới tự nhiên là tư duy đã tha hoá, là tư duy tồn tại dưới dạng vật chất. Ông nhấn mạnh rằng, tư duy là tiền đề của mọi sự vật hiện tượng. Và trong mỗi sự vật có sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, trong đó tư duy là bản chất còn tồn tại chỉ là "ngoại tại hoá" của tư duy.
Tư duy không phải là một bản nguyên bất động, mà là một quá trình nhận thức không ngừng phát triển từ thấp đến cao. Vì vậy, nó không chỉ là khởi nguyên, mà còn là chính cái nội dung phát triển của tất cả những cái hiện tồn. Theo Hegel, thế giới vật chất chính là con người vô cơ, con người còn ở giai đoạn chưa hình thành, còn con người chúng ta bằng xương bằng thịt là con người đã phát triển đầy đủ, là con người trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có của mình. Giai đoạn phát triển cao nhất của tư duy (tinh thần tuyệt đối) là tư duy con người, là lịch sử nhân loại.
Như vậy điểm xuất phát của triết học Hegel là ý niệm tuyệt đối, là sự đồng nhất (thống nhất) giữa tư duy và tồn tại một cách duy tâm. Ông quy mọi quá trình của hiện thực về quá trình tư duy, quy lịch sử hiện thực về lịch sử nhận thức. Ngay cả hoạt động vật chất thực tiễn của con người cũng bị quy về quá trình tự ý thức, tự nhận thức. Quan niệm này được trình bày khá rõ trong "Hiện tượng học tinh thần" và được triển khai trong toàn bộ hệ thống triết học của Hegel. Vì vậy, "Hiện tượng học tinh thần" được coi là cội nguồn của triết học Hegel.
Tác phẩm này cũng được coi là bí mật của triết học Hegel. Điều bí mật này được hàm chứa trong một phương pháp triết học mới so với các hệ thống triết học trước đó: phương pháp biện chứng lần đầu tiên được trình bày trong "Hiện tượng học tinh thần". Nguyên lý sau đây sẽ cho thấy điều đó
- Nguyên lý phát triển
Nguyên lý khẳng định tinh thần tuyệt đối là điểm xuất phát và nền tảng của hiện thực gắn liền với nguyên lý phát triển. Khác với các nhà siêu hình, Hegel coi sự phát triển không chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về lượng, hay sự dịch chuyển vị trí của vật về không gian. Ông hiểu sự phát triển là một quá trình phủ định biện chứng, trong đó liên tiếp diễn ra sự thay thế cái cũ bằng cái mới, đồng thời kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ mà vẫn có khả năng thúc đẩy phát triển: "cái nụ hoa biến mất khi hoa nở, và có thể nói rằng nó bị hoa phủ định; và tương tự như vậy có thể nói khi quả xuất hiện thì sự tồn tại của hoa bị coi là vô lý, thay thế cho sự hợp lý trước đây của hoa thì giờ đây là quả. Những hình thái trên đây không chỉ khác nhau mà còn bài trừ không dung hợp nhau. Tuy nhiên bản chất sống động làm chúng trở thành những yếu tố của một chỉnh thể hữu cơ, trong đó chúng không những không mâu thuẫn nhau mà cái này cũng tất yếu như cái kia. Và chỉ có tính tất yếu như nhau đó mới tạo nên cuộc sống của chỉnh thể" (G.V.Ph. Hegel "Hiện tượng học tinh thần" các tác phẩm. Tiếng nga. Matxcơva. 1959, t.4.tr.2). Đó là thực chất của sự phát triển theo quan niệm của Hegel. Chính ở tác phẩm này đã hình thành tư tưởng của Hegel cho rằng không thể hình dung (hiểu được) kết quả của sự phát triển nếu thiếu lịch sử của nó.
Sự phát triển diễn ra theo xu hướng từ trừu tượng đến cụ thể, từ khái niệm còn nghèo nàn, phiến diện đến khái niệm phong phú hơn về nội dung trong một sự thống nhất chỉnh thể. Cần đặc biệt lưu ý rằng, Hegel rất coi trọng tính cụ thể của khái niệm. Lần đầu tiên ông coi nguyên lý đi từ trừu tượng tới cụ thể là một trong những nguyên lý cơ bản trong vận động các khái niệm logic học. Như vậy, trừu tượng và cụ thể, theo Hegel là hai cấp độ nhận thức, hai cấp độ phát triển khác nhau của ý niệm tuyệt đối. Sự vận động của ý niệm tuyệt đối từ trừu tượng tới cụ thể là quá trình vận động từ đơn giản, sơ khai tới phức tạp, tới sự hoàn thiện hơn.
Xuất phát từ quan niệm phát triển như một quá trình vận động liên tục theo quy luật phủ định của phủ định, Hegel cố gắng luận chứng rằng: cơ sở sâu xa nhất của mọi sự vật là ý niệm tuyệt đối (tinh thần tuyệt đối) phát triển theo nguyên tắc tam đoạn thức: chính đề-phản đề-hợp đề, trong đó giữa các yếu tố đều có mối liên hệ hữu cơ, chuyển hoá lẫn nhau.
Theo Hegel, trên thế gian này, ngoài tinh thần tuyệt đối và các hình thức biểu hiện cụ thể của nó ra thì không còn gì khác cả.
Ý thức con người là sản phẩm của lịch sử: Trong "Hiện tượng học tinh thần" Hegel đã tiếp cận được quan niệm coi nhân cách, ý thức con người là sản phẩm của lịch sử (cố nhiên lịch sử theo quan điểm duy tâm của ông). Sự phát triển của lịch sử luôn mang tính kế thừa, mỗi thời đại lịch sử là kết quả của cả một tiến trình phát triển trước đó. Vì vậy, quá trình phát triển ý thức của mỗi người là sự khái quát lại, sự "đi tắt" (lặp lại và thu gọn) toàn bộ những gì mà lịch sử ý thức nhân loại đã trải qua. Hoạt động của con người càng phát triển bao nhiêu thì ý thức càng mang bản chất xã hội bấy nhiêu. Ở đây, Hegel đã tiến dần đến quan niệm về bản chất xã hội của ý thức, vai trò của lao động trong việc hình thành ý thức. Ông nhận thấy rằng sự phát triển của ý thức diễn ra thông qua ý thức của nô lệ chứ không phải qua ý thức ông chủ.
Mác nhìn thấy tầm vóc của "Hiện tượng học tinh thần" của Hegel ở chỗ nhà triết học đã "tóm được bản chất của lao động", hiểu con người "như là sản phẩm của lao động của chính mình".
2. Khoa học logic
Logic học là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hegel bởi đối tượng của nó là ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất phát và nền tảng của toàn bộ hệ thống. Thế giới quan duy tâm là cơ sở để Hegel giải quyết các vấn đề trong logic học của ông.
Thế giới ý niệm là giao điểm quan trọng giữa học thuyết Platon và học thuyết Hegel. Giống như Platon, Hegel cũng quan niệm cơ sở của các sự vật cảm tính là các ý niệm, đó là lực lượng định hướng thế giới kinh nghiệm. Tồn tại của ý niệm là tồn tại chân chính. Cũng chính vì vậy mà học thuyết về bản nguyên đầu tiên của thế giới được Hegel gọi là "logic học". Lôgic học" của Hegel là học thuyết về bản nguyên siêu cảm tính, hợp lý, tinh thần của tồn tại, về "cái hiện hữu chân chính". Do vậy, Logic học của ông trùng hợp với siêu hình học, mà trước hết là trùng hợp với bộ phận cơ bản của nó - bản thể luận. Mỗi hệ thống triết học dưới một hình thức nào đó đều phải được xây dựng căn cứ trên một bản thể luận xác định. Ở Hegel, đó là logịc học với ý niệm tuyệt đối của nó.
Logíc là khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư duy. Từ quan điểm xuất phát về sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, Hegel coi logic học là bộ phân quan trọng nhất trong hệ thống triết học của ông bởi ông cho rằng quy luật của tư duy mà logic học nghiên cứu cũng chính là quy luật đích thực của tồn tại: của giới tự nhiên, của lịch sử nhân loại và của cả nhận thức.
Tư duy với tư cách là đối tượng của khoa học logic được Hegel hiểu là tư tưởng thuần túy, là tinh thần tuyệt đối hay dưới khía cạnh tôn giáo đó là Chúa. Hegel không hiểu tư duy theo nghĩa hẹp, bó gọn trong phạm vi ý thức cá nhân như một khả năng nhận thức chủ quan của con người mà theo nghĩa rộng. Đó là tinh thần tuyệt đối sáng tạo ra cả giới tự nhiên và con người. Tư duy con người là giai đoạn phát triển cao nhất, trong đó tinh thần tuyệt đối có khả năng ý thức được bản thân nó.
Phê phán các học thuyết về logic học trước đây thường chỉ đề cập đến hình thức mà không đi vào nội dung, Hegel cho rằng logic học phải là một khoa học về những nguyên tắc chung nhất của tư duy và tồn tại. Ông xem ý niệm tuyệt đối là đối tượng của logic học còn hiện thực chỉ xem như một quá trình của logic. "logic học", theo Hegel, là "sự mô tả thượng đế như nó hiện hữu trong bản chất vĩnh hằng của mình, trước khi sáng tạo ra giới tự nhiên và bất kỳ một tinh thần hữu hạn nào". Logic học đem lại cho chúng ta các tính quy định đặc trưng của Thượng đế dưới dạng thuần tuý. Còn triết học tự nhiên và triết học tinh thần mô tả quá trình tự hiện thực hoá của Thượng đế. Quan niệm tư duy như là nền tảng khởi nguyên của tất cả mọi cái đang tồn tại, Hegel đã coi logic học là học thuyết về bản chất của tất cả mọi sự vật.
Mặc dù có sự khác nhau nhất định giữa "Hiện tượng học tinh thần" (1807) và "Khoa học logic" (1812-1816) trong việc xây dựng hệ thống, nhưng chủ yếu logic học của Hegel được xây dựng trên những nguyên lý cơ bản đã được khởi thảo trong hiện tượng học tinh thần.
Phù hợp với tiến trình nhận thức đi từ hiện tượng tới bản chất, từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lý tính, khái niệm, Hegel chia logic học của mình thành ba học thuyết (học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất và học thuyết về khái niệm) nghiên cứu ba giai đoạn tương ứng của tinh thần tuyệt đối: tồn tại- bản chất- khái niệm. Logic học của Hegel đã nghiên cứu và tìm ra những mối liên hệ và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các khái niệm chung nhất, giữa các phạm trù của tư duy lý luận khoa học. Các khái niệm, phạm trù được hình thành trong quá trình phát triển của nhận thức nhân loại, chẳng hạn như tồn tại, hư vô, sinh thành, chất, lượng, độ, bản chất, hiện tượng, đồng nhất, khác biệt, mâu thuẫn, tất yếu, ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực...được Hegel nghiên cứu trong quá trình vận động không ngừng của chúng, trong sự biến đổi, chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Ông đã phát hiện ra những mâu thuẫn nội tại vốn có là động lực cho sự phát triển của mọi sự vật. Sự phát triển diễn ra theo hướng từ trừu tượng tới cụ thể. Ông phê phán mạnh mẽ quan niệm siêu hình về các mặt đối lập và nhấn mạnh rằng, các mặt đối lập không phải là có tính tuyệt đối mà là tương đối. Tất cả chúng chỉ tồn tại trong mối liên hệ, chuyển hoá từ cái này đến cái kia trong sự phát triển. Học thuyết của ông về biện chứng của tư duy, về mối liên hệ và vận động của các khái niệm đã gián tiếp vạch ra nội dung và tính quy luật của quá trình vận động và phát triển của mọi sự vật không lệ thuộc vào nhận thức và tư duy của con người. Cố nhiên, Hegel chẳng thể bịa ra được biện chứng của khái niệm. Nguồn gốc đích thực của phép biện chứng ấy chính là biện chứng hiện thực khách quan của các sự vật, các quá trình trong tự nhiên và xã hội.
Khi nghiên cứu về bản chất với tư cách là một phạm trù triết học, Hegel cho rằng phải quy về bản chất tất cả những gì phân biệt các hiện tượng với nhau, và cả những gì là giống nhau, là đồng nhất trong các hiện tượng ấy. Nhưng theo Hegel, đồng nhất và khác biệt không tồn tại tách rời nhau, mà đối lập nhau nhưng gắn bó với nhau của bản chất. Khác với quan niệm siêu hình về đồng nhất như là đồng nhất trừu tượng, loại bỏ sự khác biệt, quan niệm biện chứng hiểu đồng nhất là đồng nhất cụ thể bao hàm trong nó sự khác biệt. Mỗi vật là một sự đồng nhất cụ thể, hàm chứa trong nó cái đối lập, cái phủ định của nó, hàm chứa trong nó cái sẽ có. Theo Hegel, nhận thức về quan hệ giữa đồng nhất và khác biệt sẽ phát hiện ra mâu thuẫn chứa trong cơ sở của sự đồng nhất và khác biệt ấy. Ông nhấn mạnh rằng, không nên coi mâu thuẫn là một cái gì xấu đối với các sự vật; phải coi mâu thuẫn là mối liên hệ qua lại, là sự lệ thuộc, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, là nguyên tắc của mọi sự tự thân vận động.
Gắn liền với mâu thuẫn là quan niệm của ông về phủ định. Hegel phân biệt phủ định trừu tượng (phủ định sạch trơn) với phủ định cụ thể. Phủ định cụ thể không chỉ đơn giản xoá bỏ cái cũ mà còn giữ lại những yếu tố mầm mống, tạo khả năng sống cho sự vật, tức là phủ định có kế thừa và chọn lọc. Hegel gọi sự phủ định như thế là sự vượt bỏ và cho rằng, sự phát triển tất yếu đưa tới phủ định bởi phủ định không phải là sự gán ghép từ bên ngoài mà là kết quả của quá trình phát triển tất yếu của sự vật. Chính sự phủ định đó là một nấc thang trong quá trình phát triển nên bản thân nó cũng phải chịu sự phủ định trong tiến trình tiếp theo của sự vật. Đó chính là phủ định của phủ định mà kết quả dường như quay về cái cũ nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Bản thân sự giải quyết mâu thuẫn cũng chính là sự phủ định của cái mới đối với cái cũ, là sự phá vỡ độ dẫn đến sự hình thành chất mới.
Với những nghiên cứu về các quy luật chung nhất của sự biến đổi và phát triển của mọi sự vật, Hegel đã giáng một đòn nặng nề vào quan niệm siêu hình về tính bất biến của mọi sự vật. Ông khẳng định quá trình phát triển là sự biến đổi không chỉ về bề ngoài, mà cả bên trong, không chỉ về hiện tượng mà cả về bản chất với tất cả những tính quy luật vốn có của nó (nguyên nhân, kết quả, tất yếu, ngẫu nhiên..). Ông giải thích quá trình đó một cách duy tâm, coi quá trình phát triển của mọi sự vật là sự phát triển của tư duy, của ý niệm tuyệt đối, của khái niệm.
Học thuyết về khái niệm là nội dung thứ ba, kết thúc logic học của Hegel. Ở đây, Hegel hiểu khái niệm là hình thức thể hiện tinh thần tuyệt đối. Với tư cách là sự thống nhất giữa cái chung, cái riêng và cái đặc thù, khái niệm được triển khai trong các dạng phán đoán và suy lý khác nhau. Trong khi chúng ta coi khái niệm là hình thức thể hiện tư duy lý luận, được coi như sự phản ánh, nhận thức thế giới khách quan, thì Hegel coi sự triển khai khái niệm trong các dạng phán đoán và suy lý như sự bộc lộ sức mạnh sáng tạo vốn có của khái niệm với tư cách là cơ sở bên trong của tất thảy mọi vật trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Hegel chia khái niệm thành: khái niệm chủ quan; khái niệm khách quan và khái niệm tuyệt đối (ý niệm)
Trong phần khái niệm tuyệt đối, Hegel cũng đã đặt vấn đề về mối quan hệ thống nhất và tác động lẫn nhau giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn. Theo ông, logic cũng xét đến vấn đề đời sống vì những hình thức của logic đều có nội dung. Lênin nhận xét, Mác đã gắn bó trực tiếp với nhà triết học duy tâm Đức khi ông đưa tiêu chuẩn thực tiễn vào lý luận nhận thức.
Lênin đánh giá cao phần kết này của logic học Hegel (bút ký triết học) bởi ở đây, Hegel đặt ra một loạt các vấn đề như: vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, tuy quan niệm macxit về thực tiễn đối lập với quan niệm của Hegel, bởi vì ở nhà duy tâm, thì thực tiễn, các hoạt động chính trị, tôn giáo... kể cả các hoạt động sản xuất vật chất cho xã hội rốt cuộc cũng chỉ là các dạng hoạt động tinh thần, là hoạt động của ý niệm tuyệt đối, là quá trình vận động và tự nhận thức chính bản thân mình của ý niệm tuyệt đối.
Tóm lại, logic học của Hegel là logic biện chứng trong đó nhà triết học Đức dưới hình thức duy tâm trình bày các quy luật và các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng một cách đầy đủ, minh bạch và rõ ràng nhất. Cố nhiên, những luận điểm về phép biện chứng được Hegel trình bày trong cả ba phần nhưng trong logic thể hiện rõ nhất, quan trọng nhất. Phép biện chứng của Hegel là một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển Đức. Hegel là người có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đó cũng chính là "ý nghĩa thật sự và tính chất cách mạng của triết học Hegel". "Đối với triết học biện chứng của Hegel, không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Nó chỉ ra tính chất quá độ của một sự vật. Đối với nó, không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự hình thành và của sự tiêu vong, của sự tiến triển vô cùng tận từ thấp đến cao".
Trong logic học của mình, Hegel không chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng, độ, phủ định, mâu thuẫn... mà còn nói đến cả các quy luật như "quy luật lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại", "phủ định của phủ định", và phần nào về quy luật mâu thuẫn. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động, phát triển của tư duy, của khái niệm. Đó là phép biện chứng duy tâm - tức là phép biện chứng về sự phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với bản chất sự vật. Vì vậy, Lênin nói, muốn thấy được giá trị đích thực của phép biện chứng của Hegel, phải nghiên cứu triết học của ông trên tinh thần duy vật - nghĩa là phải luôn luôn lật ngược lại vấn đề: biện chứng của tự nhiên sản sinh ra biện chứng tư duy.
Phương pháp tư duy biện chứng của triết học Hegel được Mác, Engel, Lênin và các nhà duy vật macxit sau này tiếp thu và phát triển. Theo nghĩa đó Lênin nhấn mạnh, không thể hiểu được "Tư bản" của Mác (và nói chung triết học Mác) nếu như không đọc logic học của Hegel.
3. Triết học tự nhiên của Hegel
Triết học tự nhiên, theo Hegel, là sự nghiên cứu lý luận về giới tự nhiên được hiểu như sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật vật chất. Vì vậy, quá trình hình thành giới tự nhiên đồng thời cũng là quá trình tinh thần ngày càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên.
Giới tự nhiên, theo cách hiểu của Hegel, là một chỉnh thể thống nhất trong đó mọi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau, đều không ngừng vận động và phát triển. Sự phát triển của giới tự nhiên diễn ra dưới nhiều cấp độ khác nhau về chất như cơ học, vật lý, hoá học, địa chất, sự sống... với bản chất và đặc tính vận động tương ứng. Phê phán quan niệm cơ học về thế giới thống trị trong khoa học tự nhiên thời đó, Hegel khẳng định đặc thù riêng của từng giai đoạn phát triển của tự nhiên. Vì vậy, để nhận thức đúng về giới tự nhiên cần phải xem xét sự vật phù hợp với tính chất của từng giai đoạn phát triển của nó.
Đối lập với quan niệm của Nguồn tách không gian, thời gian với các quá trình vận động của các sự vật vật chất, Hegel ủng hộ quan niệm của Lepnit về vấn đề này, hiểu rằng "các sự vật tiêu vong không phải vì chúng nằm trong thời gian, mà vì bản thân chúng là cái nhất thời". Thời gian cũng như không gian phải được hiểu như sự sinh thành của mọi vật. Cũng như Kant thời kỳ tiền phê phán, Hegel có ý đồ muốn đem lại một cái nhìn lịch sử về tự nhiên, về thế giới. Vũ trụ của chúng ta không phải ngay từ đầu đã có trạng thái như hiện nay. Tuy nhiên, nhà biện chứng lỗi lạc lại diễn tả tư tưởng đó một cách duy tâm. Ông khẳng định là chỉ có ý niệm mới có thể chuyển hoá thành giới tự nhiên. Và sự chuyển hoá này diễn ra liên tục, không ngừng: "Thế giới được tạo ra, hiện đang được tạo ra, và sẽ vĩnh viễn được tạo ra" bởi tinh thần tuyệt đối.
Tuy triết học tự nhiên của Hegel chứa đựng một số tư tưởng quý giá nhưng theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, nó vẫn là khâu yếu nhất trong hệ thống của ông bởi vì thứ nhất, hơn bất cứ lĩnh vực nhận thức nào khác, khoa học tự nhiên sớm thoát khỏi các quan niệm duy tâm thần bí về tự nhiên. Thứ hai, Hegel dã không tổng kết được, nói cách khác, không lĩnh hội được những phát kiến của khoa học tự nhiên đương thời. Điều này dễ hiểu bởi với Đêcáctơ, Lepnhit, Hegel không phải là nhà KHTN). "Quan điểm duy tâm và siêu hình về tự nhiên nói chung, sự phủ nhận tư tưởng phát triển... đã khiến triết học tự nhiên của Hegel trở nên lạc hậu hơn nhiều so với Kant thời kỳ tiền phê phán" (nhận xét của Engel trong chống Đuyring. 1957.Tr.11-12).
Toàn bộ triết học tự nhiên duy tâm của Hegel đưa đến một cấu tạo giả tạo về giới tự nhiên, lấy ý niệm thay thế cho sự nghiên cứu khoa học về cơ sở vận động và phát triển của thế giới đó. Nó mâu thuẫn với những tài liệu của KHTN. Và vì theo quan điểm của ông, trong giới tự nhiên, tinh thần không thể có sự toàn vẹn thống nhất, đặc điểm của hiện tượng tự nhiên là tản mạn và hữu hạn cho nên muốn đạt đến sự toàn vẹn của nó, tinh thần thế giới phải trở lại lĩnh vực của nó nhưng trở lại mà càng phong phú thêm do sự lưu lại ở những lĩnh vực tồn tại khác. Để phù hợp với hệ thống triết học của mình, ông chuyển sang vấn đề triết học tinh thần.
4. Triết học pháp quyền và triết học lịch sử
Các quan niệm chính trị - xã hội và lịch sử của Hegel được trình bày trong "Hiện tượng học tinh thần", trong "Bách khoa toàn thư các khoa học triết học" và đặc biệt trong triết học lịch sử và triết học pháp quyền.
Trong triết học pháp quyền và triết học lịch sử, Hegel thể hiện những quan điểm cơ bản của mình về các vấn đề phát triển xã hội, trong đó đặc biệt quan tâm nghiên cứu bản chất và nguồn gốc của nhà nước, vì theo ông "chỉ có nhà nước là thực hiện tự do". Nhờ nó, gia đình và xã hội công dân được bảo tồn, đời sống xã hội cũng như những mâu thuẫn giữa các đẳng cấp, tầng lớp xã hội mới được điều hoà. Nhà nước là "sự ngao du" của chúa trời trong xã hội loài người, là sự thể hiện tinh thần tuyệt đối.
Khác với các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII đấu tranh vì một xã hội đem lại tự do, bình đẳng cho mọi người, Hegel cho rằng "luận điểm khẳng định mọi người về bản tính vốn bình đẳng là không đúng mà phải nói ngược lại rằng con người về bản tính vốn là bất bình đẳng. Từ đó ông coi bất công, tệ nạn xã hội là những hiện tượng tất yếu của sự phát triển xã hội xuất phát từ bản tính con người. Bởi vậy trong xã hội thường xuyên xảy ra xung đột, mâu thuẫn giữa các giai cấp, giữa cá nhân và xã hội. Và chính sự nảy sinh không ngừng và giải quyết những mâu thuẫn giữa các quan hệ xã hội đó là một trong những động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Và cũng chính vì những mâu thuẫn đó mà nhà nước xuất hiện. Nhà nước ra đời nhằm dung hoà các mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo, giữa các đẳng cấp và định hướng cho xã hội phát triển. Nhà nước, theo Hegel không chỉ là cơ quan hành pháp mà là tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực của mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hoá.v.v. của xã hội, nhờ đó mỗi quốc gia mới có thể phát triển bình thường. Vì thế nhà nước tồn tại trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử.
Lập trường giai cấp và tư tưởng dân tộc hẹp hòi đã đưa ông đến một số mâu thuẫn trong lập luận. Chẳng hạn, theo quan niệm biện chứng, mâu thuẫn xã hội được coi là động lực phát triển của lịch sử. Ông cho rằng nhờ có các cuộc chiến tranh mà thể trạng đạo đức của các dân tộc được bảo toàn... chiến tranh bảo vệ các dân tộc tránh khỏi sự thối nát. Song mặt khác, nhằm bảo vệ sự thống trị của nhà nước quý tộc Phổ, Hegel lại chủ trương dung hoà các mâu thuẫn đối kháng của xã hội Đức thời đó. Hegel đề cao chế độ quân chủ Phổ, coi nó như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật. Ông coi chiến tranh là hiện tượng tự nhiên, vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử. Học thuyết chiến tranh của ông chứa đầy quan điểm sôvanh phản động, đề cao dân tộc Đức, cho dân tộc đức là bậc thầy của các dân tộc phương Tây. Hegel chủ trương thoả hiệp với hiện thực chứ không nên thực hiện cách mạng vì theo ông "tất cả cái gì là hiện thực đều là hợp lý và tất cả cái gì là hợp lý thì đều là hiện thực". Rằng không nên can thiệp vào sự tự phát triển của tinh thần tuyệt đối vì nó là thiên mệnh.
Quan niệm của Hegel về lịch sử cũng có một số tư tưởng có giá trị. Ông cho lịch sử là phương thức tồn tại của con người, là kết quả hoạt động của con người nhưng nó diễn ra theo quy luật khách quan và tất yếu chứ không tuân theo cái gậy chỉ huy của riêng ai đó. Tiến trình lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ quan trong hoạt động của con người. Vai trò của các vĩ nhân, theo Hegel, là ở chỗ họ là "những người suy nghĩ và hiểu được những gì là cần thiết và những gì là hợp thời, tức là hoạt động phù hợp với xu hướng của thời đại mình. Bản thân mỗi con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định. Không ai có thể nhảy ra khỏi thời đại mình tựa như nhảy ra khỏi cửa sổ vậy, cũng không ai có quyền phán xét lịch sử phải diễn ra như thế này hay thế khác. Cá nhân nào, lực lượng xã hội nào tìm cách đảo ngược xu thế tất yếu khách quan của tiến trình lịch sử nhân loại thì nó sẽ phải trả giá đắt cho những hoạt động phiêu lưu của mình. Lịch sử các dân tộc cũng đều phát triển trong khung cảnh lịch sử thế giới, trong dòng lịch sử chung.
Hegel khẳng định con người là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình lao động của mình. Ông đã tiếp cận được tư tưởng đề cao vai trò tích cực của hoạt động thực tiễn và nền tảng kinh tế đối với sự phát triển của đời sống xã hội cũng như tiến trình lịch sử. Ông đã thấy được vai trò của phân công lao động xã hội cũng như tính xã hội của lao động. Tuy nhiên, thứ nhất, dưới góc độ duy tâm, bản thân hoạt động thực tiễn của con người thực chất vẫn bị Hegel coi là dạng hoạt động tinh thần. Thứ hai, do chưa thoát khỏi lập trường giai cấp của mình, ông chưa đánh giá đúng mức vai trò sản xuất vật chất của quần chúng đối với sự phát triển xã hội, mặc dù khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận.
Khẳng định "lịch sử toàn thế giới là sự tiến bộ trong ý thức tự do" Hegel coi sự phát triển về tự do là chuẩn mực cơ bản đánh giá sự ưu việt của thời đại này so với thời đại khác. Trên cơ sở đó ông chia lịch sử thế giới thành 4 thời kỳ: tiền sử, Phương đông cổ đại, Hy lạp - La mã cổ đại và nước Đức cơ đốc giáo trung và cận đại. Chỗ hợp lý của quan điểm này là nó coi trình độ phát triển của tư duy nhân loại, cũng như sự giải phóng của con người là tiêu chí đánh giá lịch sử song hạn chế của nó là ở chỗ tiêu chí đó không thể coi là cơ sở duy nhất để phân kỳ và đánh giá sự tiến bộ lịch sử. Hơn thế nữa Hegel hiểu tự do dưới góc độ duy tâm, coi đó là sự nhận thức và thực hiện những quy luật tất yếu của tự nhiên với tư cách là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, hay dưới góc độ tôn giáo, "tự do con người thể hiện trong sự hiểu biết và làm theo ý Chúa".
Nhìn chung triết học pháp quyền và triết học lịch sử của Hegel, bên cạnh những hạn chế bởi lập trường duy tâm và tính giai cấp hẹp hòi, chứa đựng nhiều tư tưởng sâu sắc về sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch sử, làm nền tảng cho quan niệm duy vật về lịch sử sau này của Mác coi sự phát triển xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên. Cũng vì vậy, Ăngghen đánh giá công lao của Hegel ở chỗ đã vạch ra rằng:
- Sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật.
- Sự phát triển của lịch sử không phải tuần hoàn và luôn luôn đi lên (tuy quan điểm này của Hegel chưa thật triệt để)
- Mỗi thời đại lịch sử đều có những đặc điểm riêng
- Quá trình phát triển của lịch sử có sự liên hệ, kế thừa, giữa các giai đoạn trước và sau không tách rời.
5. Thẩm mỹ học
Triết học nghệ thuật của Hegel đóng vai trò to lớn trong sự phát triển tư tưởng thẩm mỹ học thế giới. Đây là cách thức con người tiêu khiển thời gian nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của mình.
Nghệ thuật thể hiện tinh thần tuyệt đối bằng các hình tượng nghệ thuật theo tiêu chí của cái đẹp. Cái đẹp là hình thức thể hiện đặc biệt của ý niệm. Sự sáng tạo nghệ thuật, theo Hegel vừa mang tính chủ quan của con người, vừa mang nội dung khách quan nhất định. Toàn bộ nghệ thuật phải hướng đến con người theo những nguyên tắc của chủ nghĩa nhân đạo.
Hegel đã phát triển 5 ngành mỹ thuật: kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, âm nhạc và thi ca.
Cống hiến của Hegel trong lĩnh vực mỹ học là ở chỗ ông đặt vấn đề về sự cần thiết phải xem xét nghệ thuật trong mối liên hệ hữu cơ của nó với các lĩnh vực hoạt động khác của con người như kinh tế, chính trị, đạo đức và các vấn đề lịch sử của thời đại, trong đó nghệ thuật là một bộ phận, một hình thức thể hiện tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Tóm lại, dưới hình thức duy tâm coi nghệ thuật là hình thức thể hiện tinh thần tuyệt dối thông qua các hình tượng nghệ thuật, thẩm mỹ học Hegel đóng vai trò to lớn trong sự phát triển tư tưởng thẩm mỹ thế giới. Nó khẳng định nghệ thuật như một phương thức nhận thức những lợi ích sâu xa của con người, đồng thời đem lại một cái nhìn biện chứng về tiến trình phát triển của nghệ thuật thế giới.
Cũng như triết học Kant, triết học Hegel có ảnh hưởng lớn tới tiến trình lịch sử tư tưởng nhân loại. Nó có đông đảo các môn phái như phái Hegel già, phái Hegel trẻ,...Nhưng chỉ có các nhà kinh điển Mác- Lênin kế tục được phương pháp biện chứng- di sản quý báu nhất của triết học Hegel.